Hàng ngàn ứng viên với điểm số “khủng”, thành tích ngoại khóa “dài dằng dặc” – vậy điều gì khiến BẠN nổi bật giữa đám đông? Câu trả lời nằm ở bài luận cá nhân trong hồ sơ ứng tuyển – một hành trình biến đam mê cá nhân thành lợi thế mạnh mẽ, giúp bộ hồ sơ của bạn tỏa sáng. Trong chuỗi bài blog này, chúng ta sẽ cùng khám phá những bài luận mẫu của ứng viên đã chinh phục thành công những trường đại học hàng đầu thế giới (Top 30 quốc gia hoặc 100 quốc tế). Đi kèm với mỗi bài luận là ghi chú, phản tích, từ đó, các bạn học sinh sẽ học được cách lựa chọn hoạt động phù hợp, sắp xếp câu chuyện logic và thể hiện trải nghiệm một cách chân thực.
Mục Lục
Trong một thế giới mà điểm số hoàn hảo đã trở nên tầm thường, làm thế nào để bạn nổi bật giữa biển người đầy tham vọng? Câu trả lời nằm ở sức mạnh của sự độc đáo, khả năng biến những trải nghiệm cá nhân thành một câu chuyện hấp dẫn, lay động trái tim và trí óc của những người tuyển sinh khó tính nhất. Bài luận mẫu dưới đây là minh chứng cho sức mạnh đó, một hành trình khám phá trí tuệ được viết bởi một học sinh cuối cấp, người đã dũng cảm đối mặt với những bí ẩn của sự tồn tại thông qua lăng kính toán học, kinh tế học và khoa học thần kinh. Hãy cùng nhau đi sâu vào thế giới của những suy ngẫm sâu sắc, nơi những chiếc bìa hồ sơ khiêm tốn mở ra cánh cửa dẫn đến những khám phá sâu sắc, và bài luận trở thành một tấm gương phản chiếu sự tò mò vô độ của con người.
Hometown: Pittsford, New York, US
High School: Public school, 250 students in graduating class
Ethnicity: White
Gender: Male
GPA: 96.22 out of 100
SAT: Reading 800, Math 760, Writing 770
АСТ: 35
SAT Subject Tests Taken: Mathematics Level 1, Mathematics Level
2, Chemistry, U.S. History, World History
Extracurriculars: Model United Nations Secretary General, Quiz Bowl president, varsity tennis, Political Advocates president, National Honor Society secretary
Awards: National AP Scholar, National Merit Scholar, Frederick Douglass and Susan B. Anthony Award, NY Regents Scholarship, National Latin Exam Summa Cum Laude (4 consecutive years)
Major: Applied Math
Ox=0.
This expression of mathematical mockery tells me that I know nothing; ambiguity pervades my world. But I want to change that—by understanding everything.
I grant you, this is ambitious. But two summers ago I encountered economics. The study of decisions, economics empowers me to dissect situations like this: Yesterday I resolved to buy a binder (in addition to universal understanding, I burn for office supplies). After pacing the aisles of Staples for an embarrassingly long time, I whittled my options down to one blue and one red 3-inch Mead Five Star, identical in all but color. But, for whatever reason, the blue binder cost a dollar more. I bought it.
Irrational? I think not. Although not founded on binder functionality, my purchase would merit Spock’s blessing because I assessed the marginal benefit of blueness as exceeding the marginal cost of $1.
But if I’d pay a buck for blue, how about two? Three? I could find out by raising the blue binder’s price until it isn’t worth the extra charge then I buy the red binder and spend my savings on a blue pen. With economics, I can measure anything.
Alas, understanding decisions isn’t as easy as cataloging the value of everything to everyone, for we not only value the same factors differently, but also consult entirely disparate factors when making decisions. Other binder buyers may not just value color less than I do; they may not consider it at all.
Although well stocked in the confidence department, I concede that I, too, neglect relevant factors. So I’m irrational. Big whoop. But just as I cannot erect sturdy architecture from bendy straws (as calamitous collapses at Denny’s have proved), I cannot construct a definable system from my irrational mind. My pantheon of omnipotence is starting to look more like a teepee.
I appeal to neuroscience for order. Armed with the study of mental processes, perhaps I can differentiate between factors I consider and ignore. But this is like knowing the verdict without knowing the law, the underlying scheme. To expose the system that delivers every judgment, I must know why I attended to some factors and not others.
I petition psychology for inspiration. Experience could condition me to jettison the trivial to focus on the essential. This seems reasonable. If I am equally competent with Staples and Office Depot binders, I won’t consider that when making my purchase. But how do I quantify the influence of my past?
I implore mathematics for a solution. Or perhaps computer science could better cipher the code of humankind. Or has history guarded the truth all along?
It may be all of the above! Can a neuroscience-inspired computer use economic models for decision theory, tweaked with mathematically rendered psychoanalytic principles, to map my brain by analyzing past decisions? Can I solve my brain as an infinite system of variables with each past decision as an equation that brings me a step closer to isolating the unknowns? Can I then peer into history with complete comprehension? Can I apply the same method to the future? Can I know the future?
I don’t see why not. But let’s leave Doc and Marty McFly and briefly revisit the present.
My world exists in chaos. It is a puzzle whose pieces are strewn across the floor, awaiting assembly. So every morning I open my books and battle for knowledge, assaulting the palisades of ambiguity so that one night when I close my books I will see the world as I see economics—I will understand.
Bài luận của Dylan thể hiện rõ khát khao hiểu biết thế giới xung quanh. Điểm sáng của bài viết chính là câu chuyện Dylan phân vân lựa chọn giữa hai chiếc bìa hồ sơ ở cửa hàng Staples. Thông qua giai thoại này, Dylan đã khéo léo lồng ghép kiến thức kinh tế học vào tư duy của bản thân.
Cấu trúc bài luận chặt chẽ, logic: Mỗi đoạn văn là một mảnh ghép thể hiện sự tò mò và khát khao tri thức của Dylan. Từ việc lựa chọn bìa hồ sơ, Dylan mở rộng ra những suy tư về lịch sử nhân loại. Cách triển khai này tạo nên sức hút cho bài luận, giúp người đọc bị cuốn theo mạch suy nghĩ của tác giả.
Gợi ý cải thiện: Bài luận có thể thu hút hơn nếu mở đầu bằng câu chuyện ở Staples. Người đọc thường bị hấp dẫn bởi những hình ảnh gần gũi, dễ hình dung. Tuy nhiên, Dylan đã khéo léo đưa câu chuyện này vào ngay đầu bài luận, bù đắp cho phần mở đầu mang nặng tính học thuật. Việc lồng ghép những câu văn hài hước và liên hệ đến văn hóa đại chúng cũng là một điểm cộng, giúp bài luận trở nên sinh động, tự nhiên.
Kết bài ấn tượng: Đoạn cuối là sự chiêm nghiệm sâu sắc về những câu hỏi tu từ được đặt ra xuyên suốt bài luận. Dylan đã thành công khắc họa hình ảnh bản thân là một người ham học hỏi, luôn tìm tòi khám phá thế giới.
Hy vọng bài viết này sẽ giúp các bạn học sinh và phụ huynh Việt Nam hiểu rõ hơn về cách viết bài luận hiệu quả, từ đó có thêm động lực chinh phục ước mơ du học tại các trường đại học hàng đầu thế giới.